photo 23912_10151132988682725_816652924_n-4.jpg

Chủ Nhật, 19 tháng 12, 2010

TẤM LÒNG NGƯỜI THẦY



SƠ LƯỢC VỀ TỔ SỬ- ĐỊA TRƯỜNG THCS LÝ TỰ TRỌNG

  Tổ Sử - Địa năm học 2010-2011 có sáu thành viên sau:
1)     Cô Võ Thị Lễ: Giảng dạy bộ môn Lịch sử,Địa lý và kiêm nhiệm chức vụ tổ trưởng tổ chuyên môn.
2)     Cô Dương Thị Mỹ Hạnh: Giảng dạy bộ môn Địa lý và kiêm nhiệm chức vụ tổ phó tổ chuyên môn,tổ trưởng tổ công đoàn.
3)     Cô Đoàn Thị Thu Thủy: Giảng dạy bộ môn Địa lý và kiêm nhiệm chức vụ giáo viên chủ nhiệm lớp (lớp 7/6 năm học 2010 – 2011).
4)     Cô Trương Thị Lệ Quyên: Giảng dạy bộ môn Lịch sử và kiêm nhiệm chức vụ giáo viên chủ nhiệm lớp (lớp 7/3 năm học 2010 – 2011).
5)     Cô Trương Thị Hạnh: Giảng dạy bộ môn Lịch sử,Địa lý .
6)     Thầy Nguyễn Hồ Quang: Giảng dạy bộ môn Lịch sử.
* Phương châm của tổ: Giáo dục lòng yêu nước,tinh thần dân tộc và kỹ năng sống cho  học sinh.
* Các hoạt động nổi bật:
       - Thực hiện tốt phong trào làm và sử dụng đồ dùng dạy học.
       - Đạt thành tích về ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học ( Đạt 1 giải nhất và 1 giải nhì cấp thành phố )
       - Viết và áp dụng sáng kiến kinh nghiệm (Trong mỗi năm học đều đạt loại A Cấp thành phố và cấp trường).
LỢI ÍCH TỪ MỘT LỚP HỌC VI TÍNH
     
       Trong những năm tháng công tác tại trường THCS Thái Phiên, lúc đó việc soạn giảng bằng vi tính chưa được sử dụng rộng rãi. Đến khoảng năm học 2005- 2006, tôi cố gắng tự mò mẫm trên máy vi tính (trước đây cũng có học qua bằng B nhưng không ứng dụng nên quên mất) và cũng đã làm được các bộ đề kiểm tra 15 phút, 1 tiết, học kỳ,… Và cứ thế, tôi lại tập soạn giáo án bằng vi tính cũng khá tốt. Đến năm học 2008- 2009, Phòng GD-ĐT TP Tam Kỳ tổ chức Hội thi GV dạy giỏi cấp thành phố có ứng dụng CNTT (bằng PowerPoint). Vì đây là năm đầu tiên tôi được thuyên chuyển về công tác tại trường THCS Nguyễn Du- TP Tam Kỳ. Phần vì ở môi trường mới với nhiều bỡ ngỡ, phần vì chưa biết gì về dạy học bằng CNTT (ở trường THCS Thái Phiên lúc đó cũng chưa có phương tiện để ứng dụng CNTT trong dạy học). Với biết bao lo lắng vì lúc đó tôi cũng chưa soạn thử và chưa dạy một tiết học nào bằng CNTT nên quá sức lo lắng. Nhưng được sự phân công của nhà trường và tổ chuyên môn nên bản thân tôi cũng hết sức cố gắng tập soạn 1 tiết dạy có ứng dụng CNTT để dự thi. Qua hội thi, tôi cảm thấy mình tự tin hơn, vững vàng hơn trong các tiết dạy có ứng dụng CNTT. Đến năm học này, Sở GD- ĐT Quảng Nam phối hợp cùng với VVOB tổ chức Hội thi soạn giảng bằng CNTT. Lần này, cũng được tổ chuyên môn phân công và giúp đỡ nên tôi cũng cố gắng tham gia để hoàn thành sản phẩm dự thi. Qua các kỳ thi và qua thực tế giảng dạy bằng CNTT, tôi cứ nghĩ mình đã biết cơ bản rồi, có thể ứng dụng để dạy tốt rồi. Nhưng thật không ngờ, khi được Ban Giám Hiệu trường THCS Lý Tự Trọng tổ chức lớp học vi tính vào thứ năm hàng tuần, lúc này tôi thật sự thấy hữu ích vô cùng. Từ những tiết học đơn giản nhất như phần Word, tôi cũng cảm thấy rất bổ ích và đã ứng dụng ngay vào phần Ma trận của đề thi HK I năm học này. Bằng sự chọn lọc khéo léo của thầy giáo Hải, thầy đã cung cấp những kiến thức về CNTT rất gần gũi cho GV trong soạn giảng, làm đề kiểm tra,… Chính vì vậy, dù mỗi buổi chiều phải đón con về nhưng tôi cũng cố gắng sắp xếp thời gian để tham gia các buổi học vi tính do nhà trường tổ chức. Tóm lại, lớp học này được tổ chức tại trường, lại không tốn kinh phí mà lợi ích mang đến cho người học rất lớn. Vì mỗi tiết học tôi đều tìm thấy cái mới và sự bổ ích ở trong đó. Tôi vô cùng biết ơn Ban Giám Hiệu nhà trường- những người hết sức trách nhiệm và tâm huyết với sự nghiệp trồng người thiêng liêng này.
                                                                    Dương Thị Mỹ Hạnh- tổ Sử- Địa 

CHUYÊN ĐỀ:
NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG GIÁO DỤC ĐẠI TRÀ TRONG GIẢNG DẠY BỘ MÔN LỊCH SỬ
I. MỤC ĐÍCH YÊU CẦU:
  Cũng như các bộ môn khác, dạy học lịch sử ở nhà trường phổ thông góp phần quan trọng vào việc thực hiện mục tiêu giáo dục của Đảng và nhà nước là đào tạo thế hệ trẻ thành những người có đủ phẩm chất và năng lực.Dạy học nói chung và dạy học lịch sử nói riêng là một quá trình sư phạm bao gồm nhiều hoạt động của giáo viên và học sinh, nó đòi hỏi người thầy không chỉ đơn thuần là truyền thụ kiến thức cho học sinh mà còn là nhà thiết kế sư phạm, biết kết hợp nhuần nhuyễn các phương pháp dạy học nhằm mục đích: giúp học sinh nắm vững kiến thức và phát triển tư duy lịch sử, từ đó giúp các em biết vận dụng kiến thức đã lĩnh hội được, thực hiện quá trình nhận thức qua các kĩ năng thực hành tại lớp và bài tập ở nhà một cách khoa học và hiệu quả.
II. TÌNH HÌNH THỰC TẾ:
 1. Thuận lợi:
 -Được ban giám hiệu nhà trường quan tâm, đầu tư, chú ý đến việc giáo dục chất lượng đại trà
 - Tổ chuyên môn cũng có những cuộc hội thảo với mục đích nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà cho học sinh
 - Một bộ phận học sinh ham thích tìm hiểu về lịch sử, nhất là lịch sử dân tộc
 2. Khó khăn:
 - Đa số học sinh rất lười học, không hứng thú với bộ môn lịch sử
 - Xã hội nói chung và phụ huynh nói riêng vẫn xem lịch sử là bộ môn phụ,không được coi trọng
   Xuất phát từ thực tể trên, vấn đề đặt ra cho người thầy dạy học lịch sử là không ngừng cải tiến phương pháp dạy học, đầu tư cho soạn giảng, cần phát huy tính tích cực tư duy sáng tạo trong học sinh và nhất là chú ý đến tất cả các đối tượng học sinh, có những câu hỏi kiểm tra mang tính vừa sức sẽ kích thích được sự tích cực hoạt động, từ đó tiết học sẽ sinh động hơn, tác dụng giáo dục cũng cao hơn, giúp nâng cao chất lượng giáo dục đại trà. Đó cũng là một trong những vấn đề cần nghiên cứu trong việc dạy và học bộ môn lịch sử ở trường THCS hiện nay.
III. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN:
  Trong nhà trường phố thông hiện nay, việc dạy học lịch sử phải tuân thủ theo các quy định chung của quá trình nhận thức, nghĩa là phải vận dụng đầy đủ các phương pháp dạy học sao cho phù hợp với nội dung kiến thức bài giảng và khả năng tư duy của học sinh. Muốn làm được điều này trước hết giáo viên cần phải có kiến thức lịch sử sâu rộng, phải nắm được các phương pháp dạy học, hiểu được đặc trưng bộ môn, nắm được hoạt động và nhận thức của học sinh, từ đó khai thác có hiệu quả hoạt động tư duy của các em.
- Sau đây là một số biện pháp dạy học cơ bản nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà:
1. Phương pháp sử dụng SGK:
 Giáo viên cần hướng dẫn để học sinh sử dụng tốt sách giáo khoa. Chú ý khai thác triệt để kênh chữ, kênh hình để giúp các em nhận thức sâu hơn về bài học
  Đôi khi cũng cần cho các em học theo sách giáo khoa( có gợi ý) để thời gian còn lại trên lớp giáo viên có thể khắc sâu kiến thức cho các em, giúp các em nắm bài cũ một cách dễ dàng hơn.
  VD: Trong bài Nhật Bản( T16- lớp 8) phần: “ Cuộc Duy Tân Minh Trị” khi nói đến các cải cách giáo viên nên cho học sinh học theo sách giáo khoa theo các gợi ý sau: kinh tế, chính trị, giáo dục, quân sự…, đồng thời giáo viên chú ý phân tích tác dụng của các biện pháp.
2. Sử dụng hệ thống câu hỏi:
 Câu hỏi và bài tập phải vừa sức,đúng với từng đối tượng học sinh khi kiểm tra bài cũ cũng như trong quá trình giảng dạy. Câu hỏi dễ sẽ dành cho đối tượng học sinh TB, yếu và câu khó dành cho học sinh khá, giỏi. Làm được như thế sẽ động viên các em học yếu giúp các em tự tin hơn, đồng thời sẽ kích thích phát triển óc tư duy, sáng tạo đối với các em khá, giỏi, góp phần phát huy trí lực cho các em.
  VD: ( Cũng trong bài Nhật Bản tiết 16- lớp 8)
  Khi hỏi về hoàn cảnh dẫn đến cuộc duy tân Minh Trị, hay kết quả cuộc duy tân Minh Trị, giáo viên nên gọi học sinh yếu, TB, bởi kiến thức này đã có trong sách giáo khoa, giáo viên chỉ cần đặt câu hỏi phát hiện các em sẽ trả lời được.
  Với đối tượng học sinh khá, giỏi giáo viên đặt câu hỏi nâng cao để các em tư duy.
  VD: Hãy cho biết điểm khác nhau giữa Cách mạng tư sản Nhật Bản và các cuộc Cách mạng tư sản ở Anh, Hà Lan, Pháp….mà các em đã được học, từ đó rút ra nhận xét.
3. Nên động viên các em bằng những điểm thưởng, sẽ kích thích được các đối tượng học sinh tham gia
 - Với một lời nhận xét chính xác khi kiểm tra bài cũ hoặc một câu trả lời sáng tạo trong khi giáo viên giảng bài… giáo viên nên thưởng cho các em một điểm +, nhiều điểm cộng nhỏ như thế sẽ được tính bằng điểm số và giáo viên ghi vào điểm kiểm tra miệng cho các em. Làm được như thế cũng góp phần nâng cao chất lượng giáo dục đại trà.
4. Giáo viên cần chú ý bước hướng dẫn học ở nhà
  Ở phần này giáo viên nên gợi ý trước những yêu cầu sẽ kiểm tra ở tiết sau, hoặc những bài tập, những nội dung chủ yếu đã học, hoặc cho sưu tầm tranh ảnh, tài liệu có liên quan đến tiết đã học và tiết sẽ học. Làm được như thế sẽ giúp các em ham tìm hiểu, học hỏi, đồng thời đây cũng là cách giúp các em ghi điểm một cách hiệu quả hơn.
  VD: bài “Nhật Bản” ( T16-lớp 8) giáo viên nên đặt trước câu hỏi sẽ kiểm tra bài cũ ở tiết sau:
- Nội dung và kết quả của cuộc duy tân Minh Trị?
- Nhật chuyển sang chủ nghĩa đế quốc bằng con đường nào? Kết quả?
- Hoặc cho học sinh tìm hiểu thêm những tài liêu về nước Nhật, giáo viên chấm và ghi điểm cộng cho học sinh khi kiểm tra bài tiết sau
IV. KẾT LUẬN:
Trên đây là những biện pháp nhằm nâng cao chất lượng giáo dục đại trà cho học sinh, nó đã được đúc tỉa, rút kinh nghiệm qua nhiều năm giảng dạy và cũng đã đem lại những kết quả như mong muốn
Mong rằng những biện pháp này sẽ được nhân rộng hơn nhằm động viên, khuyến khích mọi đối tượng học sinh tham gia tích cực trong các tiết học, học tốt hơn bài cũ ở nhà nhằm mục đích nâng cao chất lượng của môn lịch sử trong nhà trường phố thông hiện nay.
Tam Kỳ, ngày 10, tháng 10 năm 2011
Người thực hiện
     Trương Thị Lệ Quyên

  “ĐỐ VUI ĐỊA LÍ”
       Từ xưa, ông cha ta đã dùng CÂU ĐỐ để rèn luyện óc thông minh sáng tạo. Đố vui đã trở thành một phần không thể thiếu được trong các cuộc thi thố tài năng trong nhiều lĩnh vực khác nhau. Riêng về giáo dục, “đố vui để học”là hình thức khá hấp dẫn và rất bổ ích đối với các em học sinh. Sau đây, xin giới thiệu đến các em một số câu hỏi đố vui môn Địa lí.

1/ Nước gì ở Đông Nam Á?                                        
Chẳng giáp biển cả tí ti
Đố em, đố bạn dò truy
Đáp nhanh, đáp đúng, ghi tên bảng vàng
( Lào)

2/ Từ Ai Cập
Qua Ả rập xê út
Bao năm nghiêng bút
Đố bạn đáp mau
Vượt qua biển nào?
Mừng chào tay vỗ
( Hồng Hải- Biển Đỏ)

3/ Đố vui, vui đố
Bờ biển Mông Cổ
Dài mấy kilô...
Mau tra bản đồ
Cậu cô thi đáp
(Mông Cổ không có biển)

4/ Đố em, đố bạn
Đây nước Nhật Bản
Có đường biên giới
Chung với nước nào?
Suy thấp nghĩ cao
Đáp liền khen giỏi
(Nhật Bản là một đảo quốc, không có đường biên giới chung với nước nào)

5/ Nước Cô oét
Nước Mê hi cô
Nước Xin ga po
Đố học sinh, đố học trò
Thủ đô ai biết, đáp cho tỏ tường?
(Thủ đô của 3 nước này lấy trùng tên với tên quốc gia)
6/ a) Kinh đô ánh sáng là đâu?
    b) “Viễn đông hòn ngọc” đáp ngay chỉ gì?
    Đố em, đố bạn dò truy
    Đáp nhanh đáp đúng, tên ghi bảng vàng
    ( a-Paris,  b- Sài Gòn)

7/ Nước nào nhỏ nhất châu Âu?
Đố ai ai biết, đáp mau khen tài
Chăm ngoan đèn sách hôm mai
Nghe tôi hô nhé, một hai đáp liền
( Vatican)

8/ Tèo nói với Tí:
“Sông Amadôn
Ở miền Nam Phi”
Em, bạn dò truy
Nhanh đáp liền đi
Lời Tèo sai đúng?
(Sai- Sông Amadôn ở Nam Mĩ)

9/ Giữa châu Âu và châu Phi
Đố ai, ai biết biển gì cách ngăn?
Đố em, đố bạn hay chăng
Đáp nhanh đáp đúng, tặng bằng khen ngay
( Địa Trung Hải)

10/ Nửa đi Đà Lạt, nửa Sapa
Bản đồ du lịch mở ra tra lùng
Mới hay nó thuộc miền Trung
Thuyền quyên xin đố anh hùng nơi đâu?
(Bà Nà- Đà Nẵng)
                                                               Dương Thị Mỹ Hạnh- Tổ Sử Địa 

                                                 
       
Chuyên đề: GIÁO DỤC TRUYỀN THỐNG
THÔNG QUA MỘT TIẾT DẠY LỊCH SỬ



I. ĐẶT VẤN ĐỀ:
          - Giáo dục truyền thống cho học sinh là đặc trưng cơ bản, là đặc thù; đồng thời là một yêu cầu của bộ môn Lịch sử trong nhà trường phổ thông.
          Giáo dục truyền thống là giáo dục cho học sinh lòng yêu thương quê hương, đất nước, lòng tự hào dân tộc; là củng cố niềm tin của thế hệ trẻ vào tương lai đất nước; là phát huy những tinh hoa văn hóa, lịch sử dân tộc nói chung và của địa phương nói riêng.
          Việc giáo dục truyền thống phải được lồng ghép một cách khéo léo, nhẹ nhàng hoàn toàn không áp đặt, không gượng ép, càng không nên hô hào, để việc giáo dục truyền thống đi vào lòng các em một cách tự nhiên.
II. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ:
          Trong khuôn khổ giới hạn của một tiết dạy, tôi xin trình bày những nét cơ bản về việc giáo dục truyền thống qua bài: "Kinh tế nước ta trong các thế kỷ XVI - XVIII". (Tiết 48 - Lịch sử lớp 7).
          Không phải không có lý do khi tôi chọn bài này để thể hiện chuyên để. Bởi với một bài dạy lịch sử về diễn biến các trận đánh, các chiến dịch ..., ta có thể dễ dàng giáo dục truyền thống đấu tranh kiên cường, bất khuất của dân tộc ra. Còn qua một bài học về "Tình hình kinh tế", ta sẽ giáo dục truyền thống bằng cách nào? Và làm sao để đi vào lòng các em một cách tự nhiên nhất. Điều đó, đòi hỏi người giáo viên giảng dạy lịch sử phải khéo léo chọn lọc, lồng ghép một cách linh hoạt nhất, có tác dụng giáo dục cao nhất.
          Ví dụ: Khi dạy phần "1. Nông nghiệp" - Sau khi dạy xong phần này, giáo viên có thể đặt câu hỏi so sánh: Tại sao lúc này kinh tế nông nghiệp ở Đàng Trong phát triển hơn kinh tế Đàng Ngoài ? Câu trả lời cho câu hỏi này cũng giúp ta liên hệ giáo dục về truyền thống lao động cần cù, sáng tạo của nhân dân ta.
          Cũng từ đấy, ta liên hệ ngay đến vựa lúa của Nam Bộ ngày nay (Đàng Trong ngày xưa) - chính là đồng bằng Sông Cửu Long - Ta sẽ nhẹ nhàng giáo dục về lòng tự hào của dân tộc khi Việt Nam ta là nước đứng thứ 2 thế giới về xuất khẩu gạo.
          Hoặc khi dạy phần "2. Thủ công nghiệp" - Giáo viên đặt câu hỏi: "Ở địa phương em hiện nay còn phát triển nghề thủ công truyền thống nào ?" Giáo viên giáo dục ngay lòng tự hào về quê hương đất Quảng, về những sản phẩm thủ công điêu luyện; tinh tế của các nghệ nhân làng mộc Kim Bồng (Hội An), làng đúc đồng Phước Kiều (Điện Bàn). Cũng trong phần này, giáo viên cũng không ngần ngại khi đặt cho học sinh câu hỏi: "Vào thế kỷ XVII, ngành mía đường ở Việt Nam đã được các lái buôn nước ngoài đánh giá rất cao, thế thì tại sao đến nay (sau hơn 3 thế kỷ), ngành mía đường tỉnh nhà lại bị bỏ hoang phế? nguyên nhân từ đâu ?". Từ đấy, ta có thể đặt ra một trách nhiệm cho các em - những chủ nhân tương lai của đất nước - các em phải làm gì ngay từ bây giờ khi còn ngồi trên ghế nhà trường ?
          Hoặc khi dạy phần "3. Thương nghiệp" - Khi giới thiệu về Hội An xưa - thương cảng lớn nhất ở Đàng Trong thời bấy giờ & Hội An nay - là di sản văn hóa thế giới - Chúng ta liên hệ giáo dục lòng tự hào về quê hương đất Quảng, cũng nhân lên trách nhiệm về việc bảo tồn những tin hoa, những bản sắc văn hóa dân tộc, để Hội An trở thành điểm đến của nhiều du khách, nhằm phát triển ngành du lịch của tỉnh nhà.
          Cũng phần 3 này, khi nói về "ngoại thương", giáo viên đặt câu hỏi: Vì sao bấy giờ nhà Nguyễn hạn chế việc trao đổi mua bán với bên ngoài ? Điều đó ảnh hưởng như thế nào đến tình hình kinh tế nước ta ?" - Từ đó, giáo viên có thể liên hệ nói đến chính sách mở cửa của nhà nước ta, nói về quá trình hội nhập của nước ta với thế giới, để thấy được cái hay, cái mới trong chính sách mở cửa.
III. KẾT LUẬN:
          Từ thực tễin trên, ta có thể rút ra kết luận: Việc giáo dục truyền thống cho học sinh là điều mà giáo viên lịch sử phải làm thường xuyên, làm ngay khi nào có thể (tất nhiên là không gượng ép sẽ phản tác dụng) - Bởi, chúng ta giáo dục truyền thống yêu quê hương, đất nước, yêu con người, tên núi, tên sông ... cũng là góp phần giáo dục toàn diện cho học sinh trong nhà trường phổ thông hiện nay.
                                             Tam kỳ ,ngày 10 tháng 12 năm 2010
                           Người thực hiện
                                 TRƯƠNG THỊ LỆ QUYÊN


XEM PHIM TƯ LIỆU VỀ CD ĐIỆN BIÊN PHỦ



Bạn biết gì về “Biến đổi khí hậu”?

            “Biến đổi khí hậu Trái đất là sự thay đổi của hệ thống khí hậu bao gồm khí quyển, thủy quyển, sinh quyển, thạch quyển ở hiện tại và tương lai bởi các nguyên nhân tự nhiên và nhân tạo trong một giai đoạn nhất định được tính bằng thập kỷ hay hàng triệu năm”...Trong những năm gần đây biến đổi khí hậu (BĐKH) đề cập đến sự thay đổi khí hậu hiện nay được gọi chung bằng hiện tượng nóng lên toàn cầu.
            Nguyên nhân chính dẫn đến hiện tượng này là do sự gia tăng các hoạt động tạo ra các chất thải khí nhà kính, các hoạt động khai thác quá mức các bể hấp thụ và bể chứa khí nhà kính như sinh khối, rừng, các hệ sinh thái biển, ven bờ và đất liền.
 Như vậy biến đổi khí hậu Trái đất không còn là khái niệm mơ hồ mà giờ đây mỗi giờ, mỗi ngày đi qua nó đã và đang tác động trực tiếp đến đời sống, đến sinh mạng của con người trên Trái đất.Việt Nam -nước ta là một trong năm quốc gia trên thế giới chịu ảnh hưởng nhiều nhất bởi BĐKH. BĐKH  làm cho các thiên tai như: bão, lũ lụt, hạn hán, mưa lớn, nắng nóng,... trở nên ác liệt hơn và có thể trở thành thảm họa lớn cho sự phát triển kinh tế xã hội, cướp đi nhiều sinh mạng con người hoặc xóa đi thành quả nhiều năm của sự phát triển. Ở Việt Nam ta những lĩnh vực, đối tượng được đánh giá dễ bị tổn thương do BĐKH bao gồm: Nông nghiệp và an ninh lương thực, tài nguyên nước, sức khỏe và nơi cư trú của con người. Theo số liệu nghiên cứu nếu mực nước biển dâng cao 1m sẽ ảnh hưởng đến 10,8% dân số, sản lượng hải sản và lúa gạo của nước ta giảm tới 20%, tần suất xuất hiện lũ lụt, hạn hán gia tăng và nghiêm trọng hơn.
            Nhìn lại trong năm qua - năm 2010, thế giới đã phải gánh chịu những thảm họa môi trường tàn khốc,  nước ta chắc chắn không phải là trường hợp ngoại lệ.
       Xin mời các bạn xem một số hình ảnh và đoạn Video sau để rồi trong mỗi chúng ta sẽ có câu trả lời. Hãy hành động vì môi trường bạn nhé !
                                                                                Viết và sưu tầm: Đoàn Thị Thu Thủy 
====================================

Một số hình ảnh của các thảm họa nặng nề nhất trong năm 2010:

Haiti hứng chịu trận động đất tồi tệ nhất trong vòng 2 thế kỷ qua
Cây cối trụi lá vì nhiệt của núi lửa Merapi tại một nhà gần thành phố cổ Yogyakarta, đảo JavaIndonesia

Chile: Động đất - Sóng thần, 1.279 người chết, hơn 10 nghìn ngôi nhà bị hư hại nặng. Chi phí tái thiết: 30 tỉ USD.

Động đất, lở đất ở Trung Quốc
 Ireland: Núi lửa phun trào. Khói bụi bao phủ Tây Âu, hơn 10 nghìn chuyến bay phải huỷ bỏ.

Lũ bùn đỏ gây ô nhiễm chưa từng có ở Hungary

Thảm họa môi trường khủng khiếp nhất ở Mỹ-Hậu quả thấy rõ của vụ tràn dầu

 Lũ lụt tháng 10/2010 ở Việt Nam, 86 người chết. Ảnh: Hai em bé giơ cánh tay cầu cứu trong trận lụt tại Quảng Bình